Một điều khá nan giải là mặc dù ai cũng đồng ý về những tác hại của béo phì nhưng các chuyên gia vẫn chưa nhất trí tiêu chuẩn để chẩn đoán béo phì. Béo phì được định nghĩa là một “bệnh” với độ mỡ tích tụ đến mức có thể gây tác hại cho sức khoẻ. Nhưng người cao to (như người Âu Mỹ) thường có lượng mỡ cao nhiều hơn người thấp bé (người châu Á). Do đó, vấn đề đặt ra là tỷ lệ mỡ bao nhiêu phần trăm, so với trọng lượng, được xem là có nguy hại cho sức khoẻ?
Khuyến cáo của WHO không ổn
Lượng mỡ trong cơ thể có thể đo bằng nhiều phương pháp. Hiện nay phương pháp chuẩn để đo lượng mỡ là sử dụng máy X-quang song tuyến DXA. Tuy nhiên, máy này thường rất đắt tiền và không phải bệnh viện nào cũng có được. Do đó, thay vì đo bằng máy, các nhà khoa học tìm một cách tính gián tiếp dựa vào trọng lượng và chiều cao. Cách tính này được nhà toán học Bỉ tên Adolphe Quetelet phát triển vào thế kỷ 19. Công thức của Quetelet ngày nay được biết đến dưới một cái tên là body mass index (BMI) hay chỉ số trọng lượng cơ thể. Chỉ số này được tính bằng cách lấy trọng lượng (kg) chia cho chiều cao bình phương (m2). Chẳng hạn một người nặng 60kg và cao 1,6m, thì chỉ số BMI là 23,4kg/m2. Theo khuyến cáo của tổ chức Y tế thế giới (WHO), bất cứ ai có BMI bằng hoặc cao hơn 25kg/m2 được xem là quá cân (over-weight), và BMI bằng hoặc cao hơn 30kg/m2 là béo phì (obese). Theo cách phân loại đó, béo phì là một phần của quá cân. Nếu theo tiêu chuẩn này, ở Việt Nam chỉ có khoảng 3 – 5% dân số ở TP.HCM trên 20 tuổi là béo phì, và khoảng 25 – 30% là quá cân.
Định nghĩa như thế có điều chưa ổn. Trọng lượng cơ thể bao gồm hai thành phần chính: lượng mỡ (fat mass) và lượng nạc (lean mass). Do đó, nếu một vận động viên cao 1,6 m và nặng 80kg, với 50kg mỡ và 27kg nạc, có thể xem là béo phì. Nói cách khác, BMI không phân biệt được lượng nạc và mỡ. Do đó, nếu dựa vào BMI có thể dẫn đến chẩn đoán sai lầm cho một số người, chẳng hạn với ông thống đốc California Arnold Schwarzenegger hay tài tử Brad Pitt, nếu ta chỉ dựa vào BMI > 30 thì rất có khả năng họ cũng đã bị béo phì!
Chất vấn tiêu chuẩn béo phì
“Nếu dựa theo tiêu chuẩn BMI như hiện nay thì tài tử Brad Pitt cũng có khả năng đang bị béo phì” |
Ở châu Á, một số nhà nghiên cứu phàn nàn rằng tiêu chuẩn BMI ≥ 30kg/m2 không thích hợp để chẩn đoán béo phì cho người châu Á. Lý do mà họ đưa ra là so với người Âu Mỹ, người châu Á có lượng mỡ nhiều hơn. Năm 1994, có một nghiên cứu từ New York (Mỹ) cho thấy nếu hai phụ nữ châu Á và Mỹ có cùng BMI thì người châu Á có tỷ lệ mỡ cao hơn người Mỹ khoảng 1 – 3%. Nghiên cứu này có ảnh hưởng rất lớn đến quan điểm y khoa béo phì ở người châu Á. Các chuyên gia dựa vào kết quả nghiên cứu đó mà đề nghị tiêu chuẩn BMI chẩn đoán nên thấp hơn người Âu Mỹ. Cụ thể, họ đề nghị người châu Á có BMI bằng hoặc cao hơn 25kg/m2 (chứ không phải 30kg/m2) thì nên chẩn đoán là béo phì. Ngay cả WHO cũng miễn cưỡng chấp nhận đề nghị này. Nếu dựa vào tiêu chuẩn 25kg/m2 thì có khoảng 25 – 30% người dân TP.HCM là béo phì. Nói cách khác, dựa vào tiêu chuẩn này (BMI ≥ 25kg/m2) thì số người béo phì ở TP.HCM gần bằng hay tương đương với tỷ lệ béo phì ở Mỹ!
Để phản biện lại nhận định trên, chúng tôi – gồm một nhóm nghiên cứu Việt, Mỹ và Úc – đã thực hiện một nghiên cứu so sánh tỷ lệ mỡ ở phụ nữ Việt Nam và phụ nữ Mỹ (*). Khi xem xét kỹ phần phương pháp trong công trình nghiên cứu năm 1994, và duyệt qua y văn, chúng tôi giả thuyết tỷ lệ mỡ ở người Đông nam Á (như người Việt Nam) và người Âu Mỹ không khác nhau. Chúng tôi đã chọn ngẫu nhiên sao cho hai nhóm phụ nữ có cùng độ tuổi và cùng BMI. Sau đó, chúng tôi dùng máy DXA đo lượng mỡ, và so sánh tỷ lệ mỡ giữa hai nhóm phụ nữ này. Kết quả cho thấy phụ nữ Việt Nam có tỷ lệ mỡ là 35,6%, tương đương với phụ nữ Mỹ với tỷ lệ 35,8%. Như vậy hai nhóm có cùng độ tuổi và cùng BMI, với phương pháp đo lường hiện đại nhất và chuẩn nhất, chúng tôi minh chứng rằng hai nhóm phụ nữ Việt và Mỹ có tỷ lệ mỡ tương đương nhau. Công trình nghiên cứu và kết quả của chúng tôi mới công bố trên tập san y khoa quốc tế Obesity. Ngay sau khi công bố, nhiều báo chí và giới truyền thông quốc tế đưa tin. Kết quả này cho thấy giả định mà giới y khoa quốc tế và WHO dựa vào trong vòng 15 năm qua là sai. Bởi vì giả định sai, cho nên ngưỡng BMI dùng để chẩn đoán béo phì cho người châu Á (BMI ≥ 25kg/m2) cũng có thể sai.
Ngưỡng nào cho người châu Á?
Mỡ càng nhiều, tuổi thọ càng giảm Có thể xem béo phì như một bệnh mạn tính, tương tự tăng huyết áp và xơ vữa động mạch. Đây là một yếu tố nguy cơ của một số bệnh như viêm khớp xương, tiểu đường, kháng insulin, cao huyết áp, các bệnh tim mạch, ung thư và làm thay đổi hệ thống nội tiết, với hệ quả là tử vong. Theo ước tính, những người béo phì (không hút thuốc lá) ở độ tuổi 40 có tuổi thọ trung bình ngắn hơn người không béo phì khoảng 3,3 năm. Nếu béo phì kèm theo hút thuốc lá, tuổi thọ bị rút ngắn từ năm đến bảy năm. Độ mỡ càng nhiều, mức độ giảm tuổi thọ càng cao |
Nếu ngưỡng BMI ≥ 25kg/m2 không thích hợp cho chẩn đoán béo phì ở người châu Á thì câu hỏi đặt ra là ngưỡng nào sẽ thích hợp? Để trả lời câu hỏi đơn giản này, chúng ta cần có những nghiên cứu với hàng chục ngàn người, và phải theo dõi từ 5 đến 10 năm để biết ở lượng mỡ hay BMI bao nhiêu thì có thể xác định là nguy hiểm đến tính mạng.
Ở châu Á, có rất ít những nghiên cứu quy mô và dài hạn như thế. Vì vậy mà cho đến nay chưa ai biết ngưỡng BMI hay lượng mỡ bao nhiêu là thích hợp cho chẩn đoán béo phì cho người châu Á. Tuy nhiên, một nghiên cứu ở Đài Loan gần đây trên 36.000 người cho thấy tỷ lệ tử vong chỉ tăng cao khi BMI vượt ngưỡng 30kg/m2. Dựa vào kết quả nghiên cứu này và kết quả nghiên cứu của chúng tôi, tôi nghĩ rằng ngưỡng chẩn đoán béo phì cho người châu Á có lẽ tạm thời là BMI ≥ 30kg/m2, chứ không phải 25kg/m2 như đa số các nước châu Á đang áp dụng hiện nay. Trong tương lai, chúng tôi sẽ cố gắng phát triển một số giá trị tham chiếu cho việc đánh giá béo phì ở Việt Nam.
GS.TS Nguyễn Văn Tuấn
(*) Công trình nghiên cứu này do bác sĩ Hồ Phạm Thục Lan (đại học y khoa Phạm Ngọc Thạch và bệnh viện 115 TP.HCM) chủ trì, với sự hợp tác của giáo sư Elizabeth Barrett-Connor (đại học California tại San Diego, Mỹ), và viện nghiên cứu y khoa Garvan (đại học New South Wales, Úc). Công trình có tựa đề “Similarity in Percent Body Fat Between White and Vietnamese Women: Implication for a Universal Definition of Obesity” đăng trên tập san Obesity, số ra ngày 11.2.2010)
(Theo Sgtt)